DANH SÁCH CÁC
NHÀ KHOA BẢNGHỌ MAI LÀNG CAO
LÃM
XÃ CAO THÀNH,
HUYỆN ỨNG HÒA, T/P HÀ NỘI
----------------- O O O ----------------
Thôn Cao
Lãm, xã Cao Thành, huyện Ứng Hòa, T/P Hà Nội xưa có tên là làng Khả Lãm, huyện
Sơn Minh, phủ Ứng Thiên; được người đương thời tôn vinh là làng Khoa bảng – bởi
lẽ chỉ trong một thời gian khoảng trên một trăm năm (1670 – 1841) dưới triều đại Lê Trung Hưng – làng đã có 99 vị đỗ đạt
cao từ Sinh đồ, Tú tài đến Đình nguyên Hoàng giáp Tiến sĩ.
Với một làng quê nhỏ bé, lúc đó dân số chỉ khoảng vài trăm người mà mà có nhiều người đỗ đạt, lại có: “Tam Tiến sĩ đồng triều” (Ba cậu cháu ruột đều đỗ Tiến sĩ (Nguyễn Duy Đôn, Mai Danh Tông, Mai Trọng Tương, đều cùng làm quan một triều) là một chuyện hiếm thấy. Nếu tính cả Tiến sĩ Trần Di đỗ Tiến sĩ năm 1490, làng Khả Lãm có tổng cộng tròn 100 vị đỗ đạt, làm nên huyền thoại “Làng Khoa bảng, đất Văn hiến”, rạng danh một thời…. Họ Mai là một trong số 12 giòng họ thời đó (Tộc phả họ Mai 1740) đã góp tên vào danh sách Khoa bảng của làng tới 33 vị (chiếm 30%) lại là một kỳ tích mà ít họ, ít nơi có được.Dưới đây là Danh sách các vị Khoa bảng thuộc họ Mai thôn Cao Lãmthời Lê Trung hưng.
Với một làng quê nhỏ bé, lúc đó dân số chỉ khoảng vài trăm người mà mà có nhiều người đỗ đạt, lại có: “Tam Tiến sĩ đồng triều” (Ba cậu cháu ruột đều đỗ Tiến sĩ (Nguyễn Duy Đôn, Mai Danh Tông, Mai Trọng Tương, đều cùng làm quan một triều) là một chuyện hiếm thấy. Nếu tính cả Tiến sĩ Trần Di đỗ Tiến sĩ năm 1490, làng Khả Lãm có tổng cộng tròn 100 vị đỗ đạt, làm nên huyền thoại “Làng Khoa bảng, đất Văn hiến”, rạng danh một thời…. Họ Mai là một trong số 12 giòng họ thời đó (Tộc phả họ Mai 1740) đã góp tên vào danh sách Khoa bảng của làng tới 33 vị (chiếm 30%) lại là một kỳ tích mà ít họ, ít nơi có được.Dưới đây là Danh sách các vị Khoa bảng thuộc họ Mai thôn Cao Lãmthời Lê Trung hưng.
I. ĐẠI KHOA:
1. MAI DANH TÔNG:
Sinh năm 1706. Từ nhỏ nổi tiếng thông
minh, lại được người cậu ruột cùng làng là Hoàng giáp, Tiến sĩ Nguyễn Duy Đôn –
người họ Tây Mguyễn – dạy dỗ nên 26 tuổi, Cụ Tông đỗ Tiến sĩ khoa Tân Hợi
(1731).
Cụ từng giữ chức Giám sát ngự sử Kinh Bắc, Đốc chấn hai xứ Lạng Sơn, Cao Bằng.
Thời gian này Cụ có công dẹp giặc đến quấy phá biên cương. Cuối đời Cụ làm ở
Viện Hàn lâm, hiệu đính sách sử, soạn thảo chủ trương chính sách giúp triều
đình với chức Hiệu thư tước bá.
Đương thời, Cụ là người giỏi văn chương, tham gia nhiều cuộc xướng họa với thi
tài trong nước. Tiếc rằng năm tháng loạn lạc, những bài thơ, áng văn hay của Cụ
bị thất truyền nhiều. Khi về hưu, Cụ có để lại thơ tặng các quan trong triều.
Dưới đây là bài thơ ấy:
LƯU GIẢN ĐỒNG TRIỀU
Miệt tuyến vi trường quý dự mao
Hạnh liêu khoa giáp xuyết ban tào
Ngũ thiêm Hán tước phàn hề bổ
Lưỡng đốc Chu hàn thốn mị lao
Ưu lão hồng thi như phú ốc
Giả niên phồn huống tự dung tào
Đắc nhàn thả chủng Hương Sơn lạc
Tả hữu hi triều ngưỡng bật cao.
Dịch:
LÀM THƠ GỬI CÁC QUAN ĐỒNG TRIỀU
Quần
áo lụa là thẹn đấng làm trai
May mà dự hàng khoa giáp làm quan
Tước Hán (1) năm bậc có bổ ích gì
Quan Chu (2) hai bậc chẳng hề khó nhọc
Thân già được ban nhiều ân lộc
Tuổi lớn vẫn được ơn trên ưu ái
Được nhàn hãy du chơi Hương Sơn
Triều thịnh trị có nhiều người tài cao giúp rập.
Chú
thích:
(1). Tên triều đại do Lưu Bang sáng
lập. Ở đây tác giả ví mình được ban tước
như nhà Hán phong cho công thần.
(2). Tên triều đại do Vũ Vương sáng lập. Tác giả ví mình làm quan ở thời thịnh
trị như nhà Chu.
2. MAI NGHĨA CHÍNH (Mai
Trọng Tương):
Tên
Cụ lúc đầu là Mai Nghĩa Chính, húy Đặng, sau Cụ đổi tên là Mai Trọng Tương. Cụ
sinh vào giờ Tý, ngày mồng một tháng giêng năm Tân Tỵ (1701), niên hiệu Cảnh
Hưng thứ 22. Cụ mất ngày mồng 5 tháng 3 năm Tân Tỵ (1761), thọ 61 tuổi. Tên
thụy là Hoàng Cương, tên tự là Túy đạo tiên sinh.
Tuổi nhỏ Cụ học tại gia, sớm có tiếng là người hay chữ. Lên 18 tuổi, Cụ học người anh là Cụ Mai Danh Tông, tước Lãm Sơn Hầu. Năm 20 tuổi học Người cậu ruột là tiến sĩ Nguyễn Duy Đôn. Năm 23 tuổi, Cụ học Quan Thám họ Vũ. Năm 26 tuổi, khoa Bính Ngọ, niên hiệu Bảo Thái thứ 8, Cụ đỗ Hương cống.
Năm 36 tuổi, Cụ thi đỗ Tiến sĩ, khoa Bính Thìn, niên hiệu Vĩnh Hựu thứ 2 (1736). Bài thi của Cụ ngang với bài thi của Trạng nguyên Trịnh Toại. Nhưng vì Trịnh Toại là cháu chúa Trịnh nên bài thi của Cụ đã bị chữa sai đi một nét của một chữ nên bị giáng xuống Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân. Án văn này còn được khắc trên đôi câu đối treo ở nhà thờ chi 3 họ Mai ở thôn Cao Lãm. Câu đối đó như sau:
- Tài năng bất nhượng Trịnh Trạng nguyên, văn thủ tín xưng văn nghệ lão.
-
Tể yếu nhung lưu Lê sử quán,
phượng lâu trường ngưỡng bút phong caoDịch là:
- Thi tài đâu có kém Trịnh Trạng nguyên, đứng nhất bảng rồng văn chương lão luyện.
-
Việc lớn còn mải lưu Lê sử
quán, ngửa nhìn lâuh phượng ngọn bút vút cao
Tuổi nhỏ Cụ học tại gia, sớm có tiếng là người hay chữ. Lên 18 tuổi, Cụ học người anh là Cụ Mai Danh Tông, tước Lãm Sơn Hầu. Năm 20 tuổi học Người cậu ruột là tiến sĩ Nguyễn Duy Đôn. Năm 23 tuổi, Cụ học Quan Thám họ Vũ. Năm 26 tuổi, khoa Bính Ngọ, niên hiệu Bảo Thái thứ 8, Cụ đỗ Hương cống.
Năm 36 tuổi, Cụ thi đỗ Tiến sĩ, khoa Bính Thìn, niên hiệu Vĩnh Hựu thứ 2 (1736). Bài thi của Cụ ngang với bài thi của Trạng nguyên Trịnh Toại. Nhưng vì Trịnh Toại là cháu chúa Trịnh nên bài thi của Cụ đã bị chữa sai đi một nét của một chữ nên bị giáng xuống Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân. Án văn này còn được khắc trên đôi câu đối treo ở nhà thờ chi 3 họ Mai ở thôn Cao Lãm. Câu đối đó như sau:
- Tài năng bất nhượng Trịnh Trạng nguyên, văn thủ tín xưng văn nghệ lão.
- Thi tài đâu có kém Trịnh Trạng nguyên, đứng nhất bảng rồng văn chương lão luyện.
Cụ được nhậm chức Hình khoa
cấp sự trung. Năm Kỷ Mùi, niên hiệu Vĩnh Hựu thứ 4 (1739) được thăng chức Tư
huấn ở Chiêu Văn Quán, giữ chức Giám sát ngự sử đạo Thanh Hoa. Năm Canh Thìn
được thăng chức Hiệu úy Hàn lâm viện; sau giữ chức Hiến sát xứ Sơn Tây.
II. TRUNG KHOA:
1. Mai Hữu Khánh:
19 tuổi thi Hội, đỗ nhất cử khoa
Canh Ngọ Chính Hòa 1690, thi Hội 5
lần trúng Tam tràng, lại đỗ khoa
Hoàng từ, làm Tri huyện Gia Lâm,
được tặng Hàn lâm Đại học sĩ.
2. Mai Hoành Vỹ:
20 tuổi đỗ khoa Nhâm Ngọ Chính Hòa 1702. Thi Hội 5 lần trúng Tam
tràng Làm Tri phủ Quảng Oai.
3. Mai Qúy Xưởng: (tức Trọng Kỳ)
Đỗ khoa Tân Mão Vĩnh Thịnh 1711, thi Hội 4 lần trúng Tam tràng, làm
Tri huyện Kim Thành.
4. Mai Danh Huy:
24 tuổi đỗ khoa Đinh Dậu Vĩnh Thịnh 1717, thi Hội 1 lần trúng Tam
tràng Làm huấn đạo Khoái Châu.
5. Mai
Hoành Khải:
24 tuổi đỗ khoa Bính Ngọ Bảo Thái
1726. Thi hội 1 lần trúng Tam tràng,
làm Tri huyện Vũ Tiên.
6. Mai
Trọng Lan: (Mai Lùng)
26 tuổi đỗ khoa Kỷ Dậu Vĩnh Khánh 1729. Thi Hội 2 lần trúng Tam tràng,
làm Tri huyện Dương An.
7. Mai
Hoành Nghi:
20 tuổi đỗ khoa Kỷ Dậu Vĩnh Khánh 1729.
8. Mai Mậu Siêu: (Diệu Thận)
23 tuổi đỗ khoa Kỷ Dậu Vĩnh Khánh 1729. Thi Hội 1 lần trúng Tam tràng,
làm Tri phủ Thành Đô.
9. Mai Qúy Đĩnh: (Hoành Vũ)
26 tuổi đỗ khoa Đinh Mão Cảnh Hưng 1747. Thi hội 1 lần trúng Tam
tràng làm Tri phủ Vĩnh Khánh.
10. Mai Văn
Huyên:
33
tuổi đỗ khoa Nhâm Ngọ Cảnh Hưng 1752. Làm giảng dụ.
11. Mai Bá Chẩn:
22
tuổi đõ khoa Mậu Tý Cảnh Hưng 1768. Làm Tri huyện Đông An.
12. Mai Hữu
Đường: (Hữu Thường)
34 tuổi đỗ khoa Mậu Tý Cảnh Hưng 1768.
Làm Tri huyện Hưng Thuận.
13. Mai Đột: (Danh Đột)
26 tuổi đỗ khoa Qúy Mão Cảnh Hưng 1783. Thi
Hội 1 lần trúng Tam làm
Tri huyện Gia Lâm.
14. Mai Cảnh: (Danh Cảnh)
25 tuổi đỗ khoa Qúy Mão Cảnh Hưng 1783.
Làm Tổng giáo Nguyễn triều.
15. Mai
Danh Tựu:
Đỗ khoa Kỷ Dậu Quang Trung 1789. Làm Tri
huyện Thanh An.
III. TIỂU KHOA: (đỗ Sinh đồ, Tú tài)
1. Mai Hữu Dụng (không rõ năm đỗ)
2. Mai Hữu Chuyên (không rõ năm đỗ)
3. Mai Doãn Thành: đỗ khoa Kỷ Mão Chính Hòa 1699
4. Mai Danh Lập: đỗ khoa Mậu Ngọ Vĩnh Hựu 1738.
5. Mai Ngọc Phác: đỗ
khoa Bính Tý Cảnh Hưng 1756.
6. Mai Hoành Sỹ: đỗ khoa Kỷ Mão Cảnh hưng 1759
7. Mai Trọng Bao: đỗ
khoa Kỷ Mão Cảnh Hưng 1759
8. Mai Danh Đàm: đỗ khoa Nhâm Ngọ
Cảnh Hưng 1762.
9. Mai Mậu Kiên: đỗ khoa Ất Dậu Cảnh Hưng 1765.
10. Mai Trọng Đào: đỗ
khoa Mậu Tý Cảnh Hưng 1768.
11. Mai Danh Thiệu: đỗ khoa
Mậu Tý Cảnh Hưng 1768.
12 Mai Đỗ Quân: đỗ khoa Giáp Ngọ Cảnh Hưng 1774.
13. Mai Bạch Tích: đỗ khoa Giáp Ngọ Cảnh Hưng 1774.
14. Mai Đình Cự: đỗ khoa Giáp Ngọ Cảnh Hưng 1774.
15. Mai Danh Ngôi: đỗ khoa Giáp Ngọ Cảnh Hưng 1774.
16. Mai Hữu Thưởng: đỗ năm Qúy Mão
Cảnh Hưng 1783.
TỔNG SỐ: là 33 vị. Trong đó: Đại
khoa 2 vị. Trung khoa: 15 vị.
Tiểu khoa: 16 vị
MAI XUÂN CHỨC khảo dịch
CHÚ THÍCH:
Danh sách khoa bảng họ Mai (nội hương) làng Cao Lãm trên đây là
căn cứ vào:
“Danh sách khoa bảng làng Khả Lãm” viết
thời Tự Đức thứ 35 – ngày 28 tháng 2
và đã được in trong cuốn “Khả Lãm – Làng khoa bảng” của tác giả năm 2003.