HỌ MAI
CAO LÃM CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Số: 03TB/TT-NCCNP Độc lập – Tự do –
Hạnh phúc
------------- ------------ o o o ------------
Cao
Lãm ngày 25 tháng 3 năm 2012
THÔNG
BÁO
V/v kết thúc bước một Nghiên cứu & chắp nối phả họ
Mai
gốc ở thôn Cao Lãm, xã Cao Thành.
.........................................
Kính gửi: Các thành viên họ Mai nội - ngoại hương
có gốc ở thôn Cao Lãm, xã Cao Thành.
-
Thực hiện NQ của hội nghị toàn thể
họ Mai có đại diện của hầu hết các Chi nội ngoại hương của toàn họ (Chi 2 không cử người đến dự), nhân ngày
giỗ Tổ 18 tháng hai năm Tân Mão, tức ngày 22 tháng 3 năm 2011 tại nhà thờ Đại
tôn ở thôn Cao Lãm, xã Cao Thành;
-
Để từng bước thống nhất giải quyết
một số vướng mắc về thế thứ giữa Chi trưởng và một số người thuộc Chi 2 nội
hương; tiến tới viết tiếp, nối cuốn phả của toàn họ, trước mắt lập phả đồ của
từng Chi, chắp nối phả đồ trong toàn họ trong thời gian sớm nhất.
Hội nghị đã cử ra Ban nghiên cứu & chắp
nối phả có đầy đủ đại diện của tất cả các Chi trong toàn họ (Chi 2 nội hương không cử người tham gia)
và cử ra Ban Thường trực. Danh sách các Ban này đã được ghi đầy đủ trong Thông
báo số 01 ngày 15 – 5 – 2011 do Trưởng ban: Cụ Mai Lượng – đời thứ 13 – ký. Nội
dung bao gồm việc lập kế hoạch và quy trình tổ chức thực hiện việc thu thập tài
liệu, tra cứu, kết luận những vướng mắc trong thời gian qua và chắp nối tộc phả.
Thực hiện nghị quyết trên,
ngày 12 tháng 12 năm 2011, Thường trực Ban NC & CNP đã ra Thông báo số 02
gửi đến các Chi (riêng Chi 2 đã mang
Thông báo trả lại Trưởng ban) với nội dung thông tin về số tài liệu hiện có,
những phát hiện ban đầu, kêu gọi các Chi tiếp tục cung cấp các tài liệu liên
quan, đồng thời nêu ra những quan điểm chủ đạo về công việc nghiên cứu, chắp
nối.
Sau một năm, Ban Thường trực Ban
NC & CNP đã làm việc với tấm lòng tâm huyết đáng trân trọng, nghiêm túc,
khách quan; phân tích kỹ lưỡng, tỉ mỷ, khoa học từng dữ kiện trong các tư liệu
và đi đến thống nhất kết thúc bước một về công tác này bằng Thông báo số
03TB/TT-NC & CNP. Thông báo này được gửi tới tất cả các thành viên trong
toàn họ Mai nội ngoại hương có gốc ở Cao Lãm trước ngày giỗ Tổ 18 tháng 2 Nhâm
Thìn để tranh thủ ý kiến. Sau khi tiếp thu ý kiến đóng góp của các thành viên
trong họ, Ban NC & CNP tộc phả đã chỉnh lý, bổ sung Thông báo 03/TB với nội
dung toàn văn dưới đây:
Phần thứ nhất: ĐẶT
VẤN ĐỀ
I.
TÌNH HÌNH:
1. DIỄN BIẾN:
Sau sự kiện ngày mồng 9 tháng giêng năm Nhâm Dần tức ngày 13 – 2 – 1962
(sẽ
nói rõ ở phần sau), trong họ Mai ở
nội hương bắt đầu xuất hiện việc không thống nhất về thế thứ giữa Chi trưởng và
Chi 2. Thời gian đầu, sự thắc mắc nghi ngờ mới chỉ trong vài người, sau dần dần
lan rộng ra. Nằm trong thời kỳ bao cấp, mọi hoạt động tín ngưỡng hầu như bị cấm.
Hầu hết đàn ông ở làng Cao Lãm đều đi thoát ly... Do quá khó khăn về đời sống
vật chất và xu thế xã hội nên ít người quan tâm đến việc họ hàng và khó tổ chức
được “việc họ” theo phong tục cổ truyền. Ngay trong các gia đình, việc tổ chức
giỗ chạp cũng rất hạn chế. Ngày 18 tháng 02 âm lịch năm 1967, họ Mai tổ chức
giỗ Tổ tại nhà thờ Đại tôn với thành phần tương đối đầy đủ các thành viên trong
nội hương Cao Lãm. Cũng tại ngày giỗ này bắt đầu xuất hiện hiện tượng tuyên
truyền về thế thứ chưa thống nhất giữa Chi trưởng và một số người Chi 2 ở nội
hương. Để giải quyết sớm việc không thống nhất này, họ đã tổ chức một số cuộc
họp, nhưng đều không thành.
Tận dụng hoàn cảnh khách quan
của xã hội và trong họ như vậy, một số tài liệu đã được sáng tác và phát tán
trong thời kỳ đặc thù này.
Sau đó 25 năm (từ 1967 đến
1992), cuộc họp họ có đại diện các Chi trong nội hương và một số Chi ngoại
hương như Trần Đăng, Thượng Lâm, Dân Hòa, Đồng Tâm tại nhà thờ Đại tôn do Cụ
Mai Lượng chủ trì ngày mồng 10 tháng 3 năm Nhâm Thân tức ngày 12 – 4 - 1992 với
mục đích nhằm thống nhất giải quyết một số vướng mắc về thế thứ đã diễn ra từ
1963 đến thời điểm họp (1992).
Tài liệu đưa ra đối chiếu tranh luận gồm có:
cuốn phả thứ nhất do Cụ Mai Ngọc Viện – đời 12 - chắp nối và viết tiếp năm 1922
(lúc Cụ viết ở tuổi 50). Cuốn phả thứ
2 do Cụ Mai Thiệu Thuật – đời 12 - chắp nối, dịch ra chữ Quốc ngữ và viết tiếp
năm 1926 (lúc Cụ viết ở tuổi 20) và cuốn phả thứ 3 cũng do Cụ
Thuật viết và Cụ Uyên đánh máy bằng chữ Quốc ngữ năm 1963.
Vì còn có bất đồng và một vài
lý do khách quan khác, hội nghị đã không đưa ra được kết luận nào. Từ ngày đó
về sau, mấy cuộc họp định tổ chức nhưng đều không thành. Sự chưa thống nhất ngày
càng thêm trầm trọng, tính đến năm nay (2012)
vừa tròn 50 năm.
2. THỰC TRẠNG:
Từ sự chưa thống nhất ấy, những hoạt động, những việc làm thiếu sự
nhường nhịn thông cảm, thiếu sự hiểu biết lẫn nhau, thiếu tính xây dựng đã diễn
ra. Cá biệt còn tìm nhiều cách để bài xích, nói xấu nhau, bảo vệ quan điểm của
mình....đã vô tình làm cho tình hình mất đoàn kết ngày càng nghiêm trọng thêm.
Hiện tượng tự viết và phát tán các tài liệu, sơ đồ thế thứ - lấy danh nghĩa Tổ
Tiên để lại - một cách tùy tiện, không được tập thể của họ giao. Có người:
trưởng gia chẳng phải, trưởng Chi cũng không, nhưng đã làm một số việc vượt quá
quyền hạn của mình, thậm chí thao túng, tiếm quyền... lấy danh nghĩa tập thể
Chi, thậm chí lấy danh nghĩa thay mặt họ Mai!? ra liền mấy nghị quyết, có nghị
quyết có nhiều người ký (có chữ ký không
phải của người đứng tên), nói xấu, xúc phạm lăng mạ nhau, gọi nhau bằng
những từ ngữ quá thô thiển giống trẻ chăn trâu...lợi dụng, khoét sâu chỗ còn
khuyết và nhầm lẫn trong phả, tạo dư luận theo một hướng khác, làm méo mó sự
thật, xếp thế thứ chi khác một cách tùy tiện, xộc xệch, châm ngòi cho những mâu
mắc thêm sâu sắc. Cũng lại có người chưa từng một lần nhìn thấy chữ nào trong
phả, câu nói cửa miệng của họ lại lớn tiếng rằng: đấy là do phả Tổ tiên để lại.
Có người tuy có cuốn phả của Tổ tiên thật, nhưng cuốn phả ấy chưa viết đến đời
thứ 11....Tất cả những hiện tượng trên dẫn tới việc không hợp tác giữa Chi
trưởng và một số người Chi 2 trên nhiều việc trong họ, điển hình là việc hiếu
hỷ (ví như việc tang người thân nhà mình,
phái mình thì tập thể, cá nhân Chi khác đến thăm viếng và tham gia lo tang sự,
nhưng đến việc của người thuộc Chi
vừa đến thì lại lảng tránh). Nhiều người nói nhớ ơn cội nguồn, họ là phải
có hàng nhưng mấy chục năm nay không về nhà thờ Đại tôn lễ Tổ, hoặc có việc làm
ngăn người khác không được xuống nhà thờ Đại tôn! (tuy năm nào trưởng họ cũng có giấy mời hoặc thông báo). Có người có hành vi, lời nói thiếu tôn trọng các
Cụ đời thứ 13 là bậc chú, là bậc ông cha mình..v...v... Người ta đưa ra những giả
định tưởng tượng, những lý do không có tính thuyết phục, thậm chí đặt tối hậu
thư có tính áp đặt rằng: Nếu ông trưởng Canh chịu nhận mình là đời thứ 15 thì
họ sẽ đến nhà thờ!? Hoặc giả có trường hợp còn nói và viết sai cả sự thật lịch
sử không hề có hàng trăm năm nay như việc lập lý lịch di tích nhà thờ tiến sĩ
Mai Danh Tông chẳng hạn. Diễn biến tình hình trên đến thời điểm này là quá phức
tạp, không thể để mãi như thế được.
Cũng phải nói thêm rằng: Thời điểm
hiện nay, hầu như họ nào trong làng, trong xã thậm chí nhiều nơi tuy ở các mức
độ khác nhau cũng thường xẩy ra việc tranh luận ngôi thứ. Ngoài nguyên nhân các
tài liệu ngày xưa để lại ít, lại có sự chênh lệch nhau giữa gia đình này, chi
này với gia đình khác, chi khác do lịch sử để lại; còn có một nguyên nhân không
thể loại trừ là người viết phả lẳng lặng tự mình viết đã chen ý kiến chủ quan
“cái tôi” của mình vào. Song nhiều họ vẫn gác lại việc tạm thời chưa thống nhất
ấy, vẫn quan hệ với nhau trên tinh thần
anh em cùng một nguồn cội. Ngày giỗ Tổ, người ta vẫn kính cẩn tỏ lòng
thành chiêm bái Tổ tiên. Riêng một số ít người trong nội hương họ Mai Cao Lãm thì
không được như thế.
3. SỰ CẤP BÁCH:
Ông cha
ta có câu:
Khôn ngoan
đối đáp người ngoài
Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau
Cho nên hơn lúc nào hết, cần
phải tháo gỡ sớm. Đây là nỗi bức xúc, là nguyện vọng khẩn thiết của toàn thể
các thành viên nội ngoại hương, các tầng lớp trong họ Mai Cao Lãm.
Cũng nên nhắc lại rằng: Việc trong họ có mâu thuẫn cũng không phải bây
giờ mới phát sinh, mà ngay từ cuối thế kỷ IXX (1898) đã có lần xẩy ra rồi. Sự
kiện ngày 18 tháng 02 Nhâm Dần 1962 là đỉnh điểm (sẽ được nói đến ở phần thứ 6 cuối Thông báo này)
II. NGUYÊN TẮC & QUAN ĐIỂM CHUNG:
1. PHẢ
PHẢI ĐƯỢC THỂ HIỆN BẰNG VĂN:
Phả là cuốn sách ghi lại
toàn bộ thân thế, sự nghiệp của những người các thế hệ trước của một tập thể (tộc phả, gia phả..) để những người đời
sau, ngoài việc biết và hiểu được Tổ
Tiên của mình để học tập, phát huy và noi theo; đồng thời biết được quan hệ chú
bác, cô dì, anh chị em ruột thịt cùng huyết thống
của mình. Vì vậy, phả phải được thể hiện
bằng lời văn là chính. Sơ đồ thế
thứ (gọi tắt là phả đồ) chỉ là một
phần nhỏ, đặc trưng cho
việc tóm tắt ngôi
thứ mà thôi.
2. PHẢ LÀ CÔNG TRÌNH CỦA TẬP THỂ:
Nhà Nho học Tân Việt – người giỏi
chữ Hán vào hàng bậc nhất Việt Nam, suốt cuộc đời làm việc ở Viện Hán nôm và NXB
Văn hóa dân tộc – tên thật của Cụ là Lê Văn Duyệt đã từng nói và viết ở nhiều
cuốn sách - trong đó có cuốn hướng dẫn viết phả - rằng: “Bất cứ một cá nhân nào dù có tài cao hiểu rộng đến mấy cũng không thể
nào tự mình viết phả được...”.
Từ đó suy ra: phả nói chung phải là công trình của tập thể, người phải có tâm
huyết, có đức, công tâm và có trình độ hiểu biết về xã hội nhất định, có uy tín
trong họ mới được tập thể giao nhiệm vụ viết phả, được tập thể bổ sung, góp ý
và duyệt phả. Có như vậy mới giảm bớt đến mức thấp nhất những sai sót về dữ
kiện, đảm bảo tính khách quan trong tìm hiểu, điều tra, tập hợp. Hành văn phải
đơn giản, dễ hiểu, không đa nghĩa, đạt đến độ chính xác cao.
3. LẬP PHẢ ĐỒ TỪ GIA ĐÌNH... ĐẾN CHI:
Từ khi viết phả thành văn đến khi lập phả đồ phải thực hiện
nguyên tắc từ từng gia đình. Chỉ có từ trong từng gia đình
người ta mới biết chính xác nhất ai là trên, ai ngang hàng, ai là dưới, ai sinh
ra ai. Người ngoài không thể làm được, nếu có làm dễ đẫn đến sai sót. Sau đó
trong phạm vi rộng hơn một chút là phái
gồm một số gia đình có huyết thống gần hơn. Người đứng đầu một gia đình này so
với người đứng đầu gia đình khác trong cùng một phái quan hệ với nhau thế nào
sẽ được một mối quan hệ chung trong phái đó. Sau phái đến ngành, chi. Toàn họ chỉ việc ráp các Chi với nhau là xong. Nếu làm
khác đi , chắc chắn sẽ dẫn tới vênh nhau và mâu thuẫn nảy sinh ngay lập tức.
4. TÊN NGƯỜI:
Thời
nay, thông thường mỗi người chỉ có một tên gọi lúc khai sinh, nhưng tên đệm có
thể khác, khi người đó trưởng thành. Cũng có một số người có thêm vài tên nữa
như: bí danh, bút danh... Ngày xưa thời Nho học đang thịnh hành, những người có
học, có làm việc công, một người thường có tới vài bốn tên: tên khai sinh, tên
thường gọi, tên theo tên người con cả, tên húy, tên tự, tên hiệu, tên thụy...
Khi đưa vào phả phải rất cẩn trọng, cần thiết phải nhờ vài người am hiểu tường
tận chữ Hán nôm, phân tích để chọn dịch ra một tên thông dụng nhất hoặc ghi một
tên rồi chú thích trong ngoặc mấy tên người đó có, để dễ bề cho người đọc đối
chiếu. Người được phân công chấp bút phải ghi rõ tên thật của mình, dữ liệu
phải ghi lấy ở đâu và phải có ngày tháng năm. Nếu viết lần sau, có dữ liệu khác
lần trước thì phải chú thích lý do.
5. DI SẢN ĐƯỢC GỌI LÀ DO TỔ TIÊN ĐỂ LẠI:
Theo lễ giáo và phong tục thờ
cúng cổ truyền của dân tộc Việt Nam từ hàng nghìn năm nay, thì các gia đình khi
tổ chức cúng giỗ phải cúng đến đời thứ tư (trên
người đứng chủ sự); - còn gần với
người đang sống, nên không được cúng gộp, ngày giỗ từng Cụ vẫn phải được cúng
và “cung thỉnh” riêng (cung kính mời) tên
Cụ mất vào ngày đó. Các Cụ từ trên 4 đời (Ngũ
đường”) là đã lên hàng ngũ Tổ tiên thì khấn chung là “Cao tằng tổ khảo, cao
tằng tổ tỷ...”. Các di sản khác cũng vậy. Trong “Thọ mai gia lễ” đã nói rõ nội
dung này.
Như thế, các Cụ từ 5 đời trở lên,
mới gọi chung là Tổ tiên.
Các Cụ mới cách người đương
thời vài đời, lại thường được gặp Cụ ít năm đây thôi mà gọi Cụ là Tổ tiên thì
chưa thuận với lẽ thường lắm.
6. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU CHÍNH LẦN NÀY:
Vì Chi trưởng đã có bản xếp
thế thứ của toàn Chi, đã được đại diện các gia đình trong Chi ký, nên người
đứng đầu chi trưởng thuộc hàng thứ mấy so với người đứng đầu ở chi khác trong
họ (cao, bằng vai hay thấp hơn) thì
đương nhiên mọi người trong Chi trưởng phải theo thế thứ của Chi đã lập. Chi
khác cần tôn trọng sự quan hệ của trong nội bộ của Chi ấy (Chi trưởng). Mặt khác, ông trưởng họ Mai Danh Canh là đối tượng
chính mà một số người thuộc Chi 2 chưa thống nhất về vị trí đời thứ 14 của ông,
nên trong quá trình nghiên cứu, chắp nối, Ban Thường trực NC & CNP tuy có
liên hệ, đối chiếu với các gia đình khác trong Chi nhưng vẫn lấy dòng gia đình
ông Canh là đối tượng chủ yếu, từ đó suy ra các gia đình khác cùng trong Chi.
Phần thứ hai
TÀI
LIỆU DÙNG CHO NGHIÊN CỨU
Thường trực Ban nghiên cứu &
chắp nối phả họ lần này, sau khi nhận nhiệm vụ của họ và toàn Ban giao, Ban
thường trực đã tích cực thu thập các tài liệu liên quan, thông báo tới các Chi
cung cấp thêm; hiện nay các tài liệu Thường trực đang dùng có:
1. Cuốn phả của tác giả Mai Hoành
Khải được các bề trên giao đã hoàn thành năm Cánh Hưng nguyên niên (1740), đến năm 1767 (sau 28 năm) thì thành sách. Cuốn này
viết đến đời thứ 7. Ban NC & CNP có một số phần trích dịch.
2. Ban NC& CNP không có nguyên văn
cuốn phả 1817 của tác giả Mai Danh Cảnh chắp nối cuốn phả 1740, viết thêm 3 đời
từ đời thứ 8 đến đời thứ 10. Hiện nay mới chỉ có một phần trích dịch.
3. Cuốn phả do tác giả Mai Ngọc Viện –
chữ Hán – viết năm 1922, lúc đó tác giả 50 tuổi, đã được Viện Hán nôm dịch ra
chữ Quốc ngữ. Cuốn này chép nối một phần từ cuốn phả của tác giả Mai Hoành Khải
1740 và phần của phái Cụ Viện trong Chi trưởng.
4. Cuốn phả 1903 – chữ Hán - không có tác giả, ông
Mai Xuân Hội nhờ Viện Hán nôm dã dịch ra chữ Quốc ngữ.
5. Cuốn phả 1926 do tác giả Mai Thiệu
Thuật chép lại cuốn 1740 và nối thêm, đồng thời dịch từ chữ Hán ra chữ Quốc
ngữ.
6. Cuốn phả 1963 cũng do tác giả Mai
Thiệu Thuật viết lại hoàn toàn bằng chữ Quốc ngữ, Cụ Mai Tuấn Uyên viết lời
giới thiệu và đánh máy chữ, đóng thành quyển.
7. Thứ tự các đời thể hiện bằng văn
xuôi năm 1965 cũng của tác giả Mai Thiệu Thuật, bản viết tay.
8. Phó ý gia đình ông Mai Danh Canh.
9. Sơ đồ thế thứ Chi trưởng có đại
diện tất cả các gia đình trong Chi ký năm 1996.
10. Sơ đồ ông Mai Đức Chính lập, ông Mai
Xuân Hội phô tô và ký tên năm 1992.
11. Một số tài liệu khác như: Di chúc
của Cụ Mai Danh Lai – đời thứ 11; thư tịch, ý kiến phát biểu, quan điểm, tâm
sự, sơ đồ.... của một số vị như Cụ Mai
Tuấn Uyên (đời 13), Cụ Mai Hiển Tích (đời 13), ông Mai Tân (đời 14), ông Mai Xuân Hội (đời 14), ông Mai Xuân Chức (đời 14) ..v...v...
Phần
thứ ba:
NHỮNG
ĐIỂM THIẾU THỐNG NHẤT
TRONG CÁC TÀI LIỆU
Trong quá trình khảo sát,
nghiên cứu các tài liệu hiện có, Thường trực Ban NC & CNP phát hiện thấy có
nhiều chỗ không thống nhất giữa các tác giả với nhau, hoặc ngay trong cùng một
tác giả cũng vênh nhau về cùng một sự kiện. Xin kê ra một số chỗ chính sau đây:
1.
Cùng một tác giả Mai Thiệu Thuật:
- Phái gia đình ông Canh: cuốn
1926 viết đến đời thứ 10 (Cụ Chinh, Cụ
Khóa.), sau đó kê tên, không viết thứ tự đời đến tận Cụ Cứ và Khứ (đời 13). 37 năm sau, cuốn 1963 cũng
viết đến đời thứ 10 nhưng chỉ kê tên người này sinh ra người kia. Hai thời điểm
viết, cùng một đời lại khác nhau tên gọi,
ví dụ: Cuốn 1926, Cụ Hoan sinh ra Cụ Khoát (trùng với chi trưởng), cuốn 1963 lại viết Cụ Hoan sinh ra Cụ Hoạt (đã thay tên Khoát sang Hoạt). Cụ Hoạt
đẻ ra Cụ Ninh, Ninh đẻ ra một mình Phàm, Phàm đẻ ra Chinh và Khóa. Nhưng đến 1963 thì Cụ Ninh lại đẻ ra 2
người là Phàm và Khóa.
- Phái gia đình ông Nhang (tức Hương): cuốn 1926 viết tên đến đời thứ 9 (Cụ Cung trang 34). Cuốn
1963 cũng viết đến đời thứ 9 (trang 8),
số người là em hoặc các đời sau chỉ kê tên mà không xếp thứ tự.. Sau đó đến đời thứ
11 xếp tên Cụ Rấu (Tấu). Cuốn 1965 lại
viết
liên tục đến đời
thứ 15, nhưng xếp Cụ Rấu (Tấu) tụt xuống
1 đời - ở đời 12. Ngoài ra còn nhiều gia đình trong Chi trưởng không được nối,
để đứt quãng 1 đến 3 người không có tên trong phả.
2. Trong cuốn 1926 có đến 8 trang chữ Hán không
được dịch ra chữ Quốc ngữ (từ trang 70 -
77).
3. Trong cuốn 1926: Chi 2 được xếp
liên tục từ các đời thứ 4 đến đời thứ 7. Các chi khác thì chỉ kê tên không xếp
thứ tự.(trang 36, 37, 38, 39, 40)
4. Trong cuốn 1903 (không có tác giả) lại viết người là em,
là cháu lên trang trước (Cụ Hoành Vỹ - là
em - trang 6-7, trước Cụ Hữu Khánh – là anh, trang 8). Cụ Thùy (tức cụ Ninh) sinh ra Cụ Hoạt, Cụ Hoạt
lại sinh ra Cụ Ninh? (trang 3). Cụ Mai
Diệu Thận là con Cụ Khánh, phả lại viết tên húy là Khánh – lấy tên của bố viết tên
húy cho con (trang 12)
5. Trong cuốn 1926, viết tên 2 Cụ Viện,
Cụ Viện đã có tên ở trang 37 rồi. Sang trang 38 lại viết: “.... Mai Danh Tung là em thứ ba tên Viện, không có con giai...”
6. Một sự sai nghiêm trọng nhất là trong cuốn phả đánh máy năm 1963,
trang 17, dòng thứ 15 từ dưới lên được chép như sau: “.... Mai Luận sinh Mai Phúc Nghĩa, Mai Quang Đức tức Chức....”. Viết như thế có nghĩa là các vị có tên là Nghĩa,
Đức, Chức là cùng một hàng ngang (bằng
vai nhau?). Phải nói rõ ra rằng: sinh thời tác giả thường xuyên gặp Cụ Mai
Phú Nghĩa tại nhà Cụ Nghĩa vì hai Cụ còn là bạn nho học cùng nhau, Cụ cũng biết
ông Chức là con Cụ Nghĩa; Năm 1965 ông Chức đã 25 tuổi, tác giả còn viết chữ
Hán trên thanh nóc nhà và trên hai thanh câu đầu khi ông Chức dựng nhà, mà lại có
sự nhầm lẫn đáng tiếc vậy sao? Viết như vậy là xếp ông Mai Quang Đức và Mai
Xuân Chức đời thứ 13, cùng hàng với bố đẻ ra mình! Còn nữa: Mai Quang Đức là
anh ruột Mai Xuân Chức chứ không phải Đức và Chức chỉ là một người.
7. Trong phần mở đầu viện dẫn lời tựa
cuốn phả đầu tiên, các tài liệu đã viết khác nhau
về thời điểm ra đời
của nó: Tài liệu gốc ghi là Cảnh hưng
nguyên niên (1740); có tài liệu như
tài liệu 1903 lại ghi là Cảnh hưng năm thứ hai (1741).
8. Trường hợp chỉ có 1 người mà viết
đến mấy tên: Chi trưởng viết Cụ Cảm, cuốn 1963 viết là Cụ Cổm, cuốn 1965 viết
là Cụ Cỗm, ông Chính viết 1992 là Cụ Cỡm.
9. Trong bài tựa cuốn 1926 viết họ
Mai đến đây đã 6, 7 đời. Đến cuốn 1963 lại viết họ Mai đã đến đây (Cụ Tính) đã 7, 8 đời?
10. Bài tựa của cuốn phả gốc 1740,
nguyên văn tác giả Hoành Khải viết rằng 2 tiến sĩ chỉ xem, duyệt phê “Ghi chép
đúng sự thực”; tác giả cuốn 1963 lại viết rằng 2 tiến sĩ làm ra quyển phả đầu
tiên?
11. Cụ Mai Danh Cảnh, cuốn 1963 xếp Cụ
đời thứ 8 (trang 6). Cuốn khác lại
viết Cụ ở đời thứ 9.
12. Cuốn 1926, phái gia đình Cụ Viện ghi đủ 3
nhà: Mai Danh Tồ, Mai Danh Khiêu, Mai Đảng (trang
38 – 40). Cuốn 1963 bỏ 3 nhà này không viết. Một số gia đình khác cũng gặp trường
hợp tương tự.
13. Cuốn 1926: phần
Nhời tựa viết: “ ... đến năm 1836, có người con cháu là Mai Tuân mới làm ra bài
tựa...(trang 28). Tra trong phả này
thì Cụ Cảnh không có người cháu nào tên là Tuân, mà chỉ có người tên Tuân ở
hàng chút... (trang 131).
Tuy có những sự không khớp nhau
như đã nêu ra ở trên – có thể chỉ là sự nhầm lẫn nhất thời - song tâm huyết và
công sức đóng góp cho họ của tác giả thật là lớn lao, rất đáng được trân trọng.
Những dữ kiện không thống nhất
chính kê ra trên đây nói lên một điều đã được khẳng định: viết phả một mình mà
không thông qua tập thể, thiếu thận trọng, không điều tra kỹ lưỡng thì sai sót tất yếu sẽ xẩy ra; và tác
giả cũng đã phải viết ra trong cuốn 1926 rằng:
“... Hiềm vì chi ấy
(ý nói Chi
trưởng), 2, 3 đời nay không ai biên chép
gì, bây giờ không rõ ra được, hỏi những người già cả cũng chỉ hồ đồ không ai
biết thế nào, thành ra không rõ ai là trên ai là dưới. Tiếc thay, nay xin đem
những người bây giờ ghi vào trong phả... Chỗ này cũng coi như một thời khuyết
sử của nhà làm sử vậy”. Thực tế trước đó 4 năm (1922),
Cụ Mai Ngọc Viện, đã viết về gia đình nhà Cụ - thuộc Chi trưởng - rồi. (Cụ Viện là người đã trưởng thành - 50 tuổi,
hơn Cụ Thuật 30 tuổi - lúc đó Cụ Thuật đang ở độ tuổi mới lớn).
Phần thứ tư:
SUY
NGHĨ, CẢM NHẬN VỀ CÁC TÀI LIỆU
Trong số các tài liệu mà Ban
nghiên cứu và chắp nối phả thu thập được khá nhiều. Ban Thường trực đã nhiều buổi làm việc tập
thể và thống nhất rằng: Hầu hết các tác giả đều có tâm huyết vì mục đích chung
xây dựng truyền thống của họ mà bỏ công sức, tiền bạc của riêng mình ra để
viết; đó là tài sản quý báu vô giá của cả họ để lại cho các đời sau. Nhờ có các
tài liệu trên, ngày nay con cháu mới có điều kiện để biết và hiểu về Tổ Tiên,
ông cha giòng dõi nhà mình.
Tuy nhiên, khi thực hiện, do
khả năng trình độ, do tâm lý, do hoàn cảnh chủ quan, khách quan và các yếu tố quan
hệ gia đình, xã hội khác nhau đã tác động.... dẫn đến việc người viết không thể
không phạm sai sót trong quy trình cũng như những hạn chế kỹ thuật (ví như một Cụ có nhiều tên, vì không cùng
thời nên không biết chọn tên nào?, không có người giúp điều tra thu thập dữ
kiện, không hiểu rõ, nắm chắc – vẫn cứ viết ) gây nhiều hậu quả đáng tiếc
cho đời sau; làm cho đời sau lạc hướng, mất rất nhiều thời gian tìm hiểu, thậm
chí hiểu sai, sinh ra tranh luận, cãi vã dẫn đến việc chia rẽ mất đoàn kết...v...v...
Với tinh thần cầu thị, tôn
trọng lịch sử khách quan, có căn cứ, cân nhắc cẩn trọng, phân tích nhiều chiều, nhiều khía cạnh một cách khoa
học, và với tinh thần trách nhiệm cao được họ giao; Ban NC & CNP xin vô
phép, mạnh dạn có một số suy nghĩ cảm nhận về các tài liệu của họ đã thu thập
được dưới đây:
1. CUỐN PHẢ 1740: “MAI GIA THẾ KỶ TỰ”
Đây là cuốn phả đầu tiên của
toàn họ Mai do Cụ đời thứ 7: Mai Hoành Khải hiệu Văn Giác tiên sinh – nhận chủ
trương của các bậc tôn trưởng – “hoàn thành năm Cảnh hưng nguyên
niên – 1740, 28 năm sau – 1767 – thì thành sách”. Cuốn phả được 2 tiến
sĩ Mai Danh Tông và Mai Trọng Tương – hàn lâm viện, tước Sơn hầu, duyệt và phê:
“Ghi chép đúng sự thực”. Đây thực sự là cuốn tộc phả của Tổ
tiên để lại. Ngoài phần “Lời tựa” viết khúc triết, dễ hiểu, khiêm tốn và chặt chẽ ra, còn nêu lên một số nguyên tắc
cơ bản khi viết phả. Cuốn phả này viết từ Cụ Thủy tổ (đời thứ nhất) đến các Cụ đời thứ 7. Sự chính xác được minh chứng là thế thứ
từ đời thứ nhất đến đời thứ 7, các cuốn phả chép lại sau này, quan hệ thế thứ
giữa các chi hoàn toàn thống nhất cả về tên người cũng như thứ tự trên dưới rõ
ràng.
2.
CUỐN PHẢ 1817:
Đây là cuốn phả của tác giả Mai
Danh Cảnh. Cụ là người thuộc đời thứ 9. Cuốn phả này viết tiếp 3 đời chắp với
cuốn 1740 từ đời thứ 8 đến đời thứ 10. Đây cũng là cuốn tộc phả của Tổ Tiên để
lại. Cuốn này viết bằng chữ Hán chưa dịch toàn bộ ra chữ Quốc ngữ.
Từ đời thứ 10 (cuốn phả này
viết) trở về đời thứ nhất là thống nhất tên gọi, thế thứ trong toàn họ. Các tài
liệu sau này đều lấy đó làm căn cứ để xếp thế thứ trên phả đồ.
3.
CUỐN 1903: “MAI GIA PHẢ HỆ”
Cuốn này viết chữ Hán, ông
Mai Xuân Hội thuê dịch ra chữ Quốc ngữ. Cuốn phả này chưa phải là tộc phả, có
chăng chỉ có giá trị trong phạm vi gia đình vì không có tác giả, nội dung sao chép không đầy đủ. Đầu
cuốn sách lại viện dẫn cuốn phả năm Cảnh hưng nguyên niên 26 – 02 năm 1740 của
Cụ Mai Hoành Khải, đổi ra thành Cảnh hưng thứ 2 ngày 15 tháng giêng năm 1741! Tên
các Cụ chỉ đến đời thứ 8. Thứ tự các đời chưa chuẩn: em là Cụ Mai Hoành Vỹ,
cháu là Cụ Hoành Khải, Hoành Vũ đứng trước Cụ Mai Hữu Khánh là anh, là bác.
Thậm chí bỏ Cụ Mai Hoành Nghi là em trai 2 Cụ Khải và Cụ Vũ, đã không viết vào.
Tóm lại do có nhiều thiếu sót,
không đầy đủ và mới chỉ sao chép gần đây, không thể coi cuốn phả năm 1903 là
phả của họ Mai do Tổ tiên để lại được.
4. CUỐN 1922: “TRÍCH LỤC GIA PHẢ HỌ MAI”
Cuốn này do Cụ Mai Ngọc Viện
viết năm 1922 bằng chữ Hán, đã được Viện Hán nôm dịch ra chữ Quốc ngữ. Nội dung
có 2 phần: Phần một “Tiền biên” là chép toàn văn “Lời tựa” và một phần của cuốn
1740 gồm các Cụ từ đời thứ nhất đến đời thứ thứ 3 (Cụ Dụng), Phần thứ 2 “Hậu biên”, Cụ viết riêng gia đình nhà Cụ đến
đời thứ 12 (chính là Cụ Viện). Trong
phần chép lại các đời, Cụ có chép 2 tiến sĩ Mai Danh Tông và Mai Trọng Tương ở
đời thứ 7. Cuốn phả này cũng chỉ là cuốn phả của gia
đình, chứ chưa đạt đến tầm là tộc phả.
5. CUỐN 1926: “GIA PHẢ HỌ MAI”
Cuốn “Gia phả họ Mai” do Cụ Mai
Thiệu Thuật – đời thứ 12 - chép lại cuốn 1740, dịch ra chữ Quốc ngữ và nối tiếp
các đời sau. Chỗ thì tới đời 9 (gia đình
Cụ Viện), chỗ thì đến đời 10 (gia
đình ông Canh), số gia đình còn lại hầu hết là đến đời thứ 13. Chi trưởng
Cụ viết sơ sài, chủ yếu là kê tên, Cụ viết: “... hỏi những người già cả cũng chỉ hồ đồ không ai biết thế nào, thành ra
không rõ ai là trên ai là dưới, tiêc thay, nay đem những người bây giờ ghi vào
trong phả.... chỗ này cũng coi như một thời kỳ một thời kỳ khuyết sử của nhà
làm sử vậy”. Riêng Chi 2, Cụ viết tỉ mỉ hơn nhiều.
Đây là cuốn phả rất quý không chỉ có sự liên tục mà càng quý hơn là
đã được dịch ra chữ Quốc ngữ, tạo thuận lợi cho đời sau không mất công dịch. Cuốn
phả này viết từ đời thứ nhất đến đời thứ 10 đúng như cuốn 1740 và 1817 của Cụ
Mai Hoành Khải và Mai Danh Cảnh. Thế thứ các đời thống nhất trong toàn họ,
không xẩy ra thắc mắc gì. Tuy vậy, cuốn này có giá trị như phả của một Chi cứ chưa
đến tầm là tộc phả vì chưa thật đầy đủ, thiếu độ chính xác, có nhiều mâu thuẫn
như chính tác giả đã thừa nhận. Nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng trên là tuy
tác giả rất có tâm huyết đấy, nhưng lại tự viết một mình, không cho Chi trưởng
biết, trong khi thời điểm ấy, chi trưởng có nhiều người được học hành và làm
việc công, và cũng đã ghi chép trước đó 4 năm rồi. Gía như lúc ấy tác giả có sự
liên hệ với Cụ Viện ở Chi trưởng thì khiếm khuyết này chắc chắn không xẩy ra.
Sự không hiểu tường tận này dẫn đến hậu quả là cuốn 1963 và 1965 cũng do tác
giả viết lại phát sinh nhiều dữ kiện vênh nhau. Tuy tác giả chưa phải là hàng Tổ
tiên; tuy chưa đến tầm là phả chung của toàn họ, còn có những khiếm khuyết,
nhưng tâm huyết với họ của tác giả thì không ai dám phủ nhận, mãi mãi được họ
ghi nhận công lao.
6.
CUỐN PHẢ 1963:
Cuốn phả này viết hoàn toàn
bằng chữ Quốc ngữ (được đánh máy bằng máy
chữ kê giấy than ngày xưa). Cụ
Thuật viết, Cụ Mai Tuấn Uyên – đời thứ 13 – viết lời giới thiệu và đánh máy ra
một số bản ngày 01 tháng 10 năm 1964. Chi trưởng viết đến đời thứ 13, rồi xếp
Cụ Cổm vào đời thứ 12 (trang 8) tụt xuống một đời so với thế thứ của Chi trưởng.
Phái gia đình ông Nhang viết đến Cụ Rấu, xếp Cụ Rấu đời thứ 11 (trang 10) - cũng có tài liệu viết là
Tấu, (trùng với thế thứ của phả Cụ Viện
và Chi trưởng).
Chi 2 được viết liên
tục đến đời thứ 14, 15.
Gia đình ông Mai Xuân Chức như
đã nói ở trên, cuốn phả 1963 đã xếp sai nghiêm trọng: hai anh em ông Chức “dồn”
vào một người và nâng lên một đời bằng bố đẻ. (trang 17, dòng 15 từ dưới lên). Cuối
trang 8, phả lại viết y hệt như cuốn 1926: “....
chi trưởng, vì 2, 3 đời gần đây không ai ghi chép, thành ra khó tra cứu... Mới
đây phải hỏi dò các cụ lão mạo truyền khẩu cho những thế thứ của các phái để
chép kê sau này”. Viết phả mà lại “phiên phiến”, chỉ “hồ đồ”, dữ liệu bằng
“hỏi dò truyền khẩu” thì chưa đúng với trách nhiệm của người viết phả. Cuốn này
cũng không phải là tộc phả, càng không phải là của Tổ tiên để lại vì không chỉ
có những sai sót quá sai sự thật mà còn mắc lại lỗi lầm như cuốn 1926. Một sai
lầm mà bất cứ một người bình thường nào cũng dễ nhận ra.
7.
PHẢ ĐỒ 1965 :
Phả đồ được diễn đạt bằng văn xuôi,
chữ Quốc ngữ năm 1965 cũng do Cụ Thuật
dựng. Phái gia đình
ông Canh xếp ông Canh đời thứ 15. Riêng đến đời thứ 10, các tên người
trùng với sự xếp
thế thứ của Chi trưởng. Phái gia đình ông Nhang, các tên người chỉ trùng với
phả Cụ Viện đến đời thứ 6. Từ đời thứ 7 trở xuống có nhiều tên khác với phả Cụ
Viện. Tiếp đến Cụ Rấu: cuốn 1963 xếp đời thứ 11, cuốn này lại xếp tụt xuống đời
thứ 12. Ngoài ra, phả đồ này còn thêm nhiều người không có tên trong các phả.
Đây cũng chưa phải là tộc phả,
lại càng không không phải là phả do Tổ tiên để lại.
8. PHÓ Ý CỦA GIA ĐÌNH ÔNG CANH:
Bản viết tay, không chỉ viết tên
các Cụ theo thứ tự như các Cụ Cảm, Cam, Bởm, Cứ, Khứ... mà phó ý này còn viết
cả lời khấn dùng cho các dịp giỗ chạp và chỉ trong phạm vi gia đình.
9. PHẢ ĐỒ TOÀN CHI TRƯỞNG:
Tờ phả đồ Chi trưởng được đại
diện các gia đình trong Chi trưởng cùng nhau lập và ký tên. Đây là sự thống
nhất trong Chi trưởng về thế thứ giữa các phái với nhau căn cứ vào tài liệu các
đời trước để lại và quan hệ trong gia đình đã tồn tại từ nhiều đời trong chi. Là
phả đồ của Chi, nên các Chi khác rất nên tôn trọng.
10.
SƠ ĐỒ ÔNG MAI ĐỨC
CHÍNH LẬP:
Ông Mai Đức Chính (đời thứ 14) tự mình lập vẽ đồ “giúp”
chi trưởng, bản viết tay năm 1992, ông Mai Xuân Hội mang đi Hà Đông phô tô và
ký tên. Căn cứ vào thế thứ và tên người mà ông Chính viết thì chắc chắn ông đã sao
chép từ phả đồ diễn giải bằng văn của Cụ Thuật năm 1965.
11.
MỘT SỐ TÀI LIỆU KHÁC:
Mốt số tài liệu khác là Di chúc
của Cụ Mai Danh Lai, những thư tịch, những lời phát biểu, những tâm sự, những
phát hiện.... tỏ rõ quan điểm, nỗi bức xúc của mình. Thường trực Ban NC &
CNP đều đã đọc, nghiên cứu, phân tích kỹ và được chuyển tải vào nội dung các phần của thông báo hoặc chỉ tham
khảo để biết vậy thôi.
Phần thứ năm:
VƯỚNG MẮC CHÍNH Ở ĐỜI THỨ 11
Qua các phần nêu ra ở trên, chúng
ta phát hiện và đã tìm ra được vướng mắc
chính. Từ vướng mắc này tạo nên quan điểm khác xa nhau dẫn tới việc không thể
thống nhất được kéo dài tới 50 năm đã qua.
Những vướng mắc đó là:
1.
Khởi sự và tập trung tất cả đều nẩy sinh từ đời thứ 11:
a.
Phái gia đình ông Canh:
- Cuốn 1926 không có tên Cụ nào.
- Cuốn 1903, 1963 cũng không.
- Đến cuốn 1965 lại xuất hiện
người tên là Chiến. Trong các tài liệu của Chi trưởng
không
hề thấy có Cụ nào mang tên Chiến. Trong bài khấn giỗ của gia đình ông
Canh cũng không có Cụ nào tên là Chiến, mà chỉ có Cụ tên là
Cảm. Như vậy
người có tên là Chiến là người mới được đưa
vào
Vậy Cụ đời thứ 11 thuộc gia đình
ông Canh là Cụ CẢM
b.
Phái gia đình ông Nhang:
- Cuốn 1926 không viết tên Cụ nào.
Cuốn 1903 cũng không.
- Cuốn 1963 viết Cụ Rấu.
- Cuốn 1922 của Cụ Viện viết Cụ
Rấu ở vị trí đời thứ 11.
Như
vậy là Cụ Thuật xếp Cụ Rấu ở đời thứ 11 đã trùng khớp với phả Cụ Viện và phả đồ của Chi trưởng rồi, không có gì
phải bàn cãi gì nữa. Cũng rất may khi
xếp lần 1963 này ít nhất cũng đã có 2 người – Cụ Thuật và Cụ Uyên - nên độ
chính xác cao hơn (tuy đến phả đồ 1965 Cụ Thuật lại xếp Cụ Rấu xuống 1 đời?).
Nếu tác giả cứ tiếp tục xếp thứ
tự các đời ở các phả đồ tiếp theo thiếu sự chuẩn xác như kiểu cuốn sau khác
cuốn trước, thì không biết sẽ còn nẩy sinh bao nhiêu sự chênh lệch nữa?). Thực tế đã chứng minh nhận định này. Ví dụ: trong phái gia đình ông
Hiên, ông Hằng: tác giả viết ở cuốn 1926: Mai Danh Phát là con Mai Danh Chòi?
Trong thực tế không có Cụ Mai Danh Chòi. Mà chỉ có Cụ Mai Thị Chòi. Cụ Mai Tùy
sinh ra Mai Thị Chòi, Mai Phát, Mai Quát...(sau
đó, Cụ Chòi lấy chồng về gia đình ông Khẩn – xóm 10 ). Viết như tác giả vô
hình chung “chị gái là Chòi lại đẻ ra em trai là Phát!?”.
Vậy Cụ đời thứ 11
thuộc gia đình ông Nhang là Cụ RẤU.
2. Nút thắt
được gỡ:
Tên các Cụ trong gia
đình nào thì người trong gia đình ấy là biết rõ nhất. Người ngoài cũng có thể
biết, nhưng có thể thiếu, chưa chính xác. Một con người bình thường, dù có tâm
địa đen tối, vô ơn bạc nghĩa đến đâu, cũng không bao giờ lại bỏ tên Tổ tiên ông
cha mình đi mà không công nhận, huống hồ với ông Canh, ông Hiên, ông Hằng là
những người có học, có địa vị xã hội nhất định lại đi làm việc dã tâm đó. Hiện
tượng bảo thủ cho rằng mình là duy nhất đúng,
mà không nghe người khác nói, có phải là cực đoan, bảo thủ chắng? Chỉ
tin tài liệu này, bác bỏ tài liệu khác, liệu có công bằng, khách quan? Tập thể
chi trưởng người ta cùng xác định thế thứ của chi ấy với nhau, chẳng lẽ cả chi rủ nhau là bịa đặt sao? Nếu có tâm huyết với họ sao không chịu lắng
nghe, trên tinh thần tôn trọng và cầu thị, vui vẻ ngồi lại với nhau để tranh
luận rõ đúng sai có phải là tốt biết mấy?
Một cai tên tự viết vào mà gia
đình người ta không có đã là một việc khiên cưỡng; hơn thế các cuốn phả và phả
đồ 1926, 1903, 1963, 1965 chưa phải là tộc phả (như phần thứ tư đã phân tích) lại càng không phải là do Tổ tiên để
lại (vì vừa mấy năm gần đây thôi mà);
Vì vậy viện cớ là Tổ tiên để lại là không thỏa đáng, mang tính áp đặt một
chiều.
Xẩy tình trạng lâu nay có vướng mắc,
không hiểu nhau có thể do các nguyên nhân:
a. Vì một người ngày xưa có vài
bốn cái tên nên dịch từ chữ Hán sang chữ Quốc ngữ đã không rõ các Cụ dùng tên
nào là chính để viết vào phả nên xẩy ra nhầm lẫn.
b. Người viết phả không có sự liên
hệ, không hiểu rõ đối tượng định viết mà chỉ “hồ đồ, đi dò hỏi...” rồi kê vào,
nên không biết chắc chắn thứ tự và tên thật, nên đã xẩy ra sai sót.
Như phân tích ở trên,
việc gỡ vướng mắc thật là đơn giản, rõ ràng. Đời thứ 11 của 2 gia đình đã được
xác định. Nút thắt này tháo rồi, các đời sau đã hoàn toàn khớp với thế thứ của
Chi 2 xếp “giúp” Chi trưởng. Các phái còn lại trong Chi và toàn Chi trưởng cứ
theo phả đồ của Chi mà chắp nối vào; mặc dù các đời sau Cụ có tên là Cảm, cuốn
1963 viết là Cổm, cuốn 1965 là Cỗm, Cỡm hoặc gì gì đi nữa cũng không còn ý
nghĩa.
Phần
thứ sáu: SỰ
VIỆC TRONG HỌ
NHIỀU
NGƯỜI CHƯA BIẾT
Như trên trang 1 đã nói, nay
thông tin rõ hơn về một sự việc ít người được biết đến mà lúc đầu mới xẩy ra,
người ta thường gọi là “sự kiện năm 1962”,
năm mở đầu cho việc tranh luận thế thứ. Vì
thực hiện việc nghiên cứu và chắp nối phả nên cũng phải nói ra. Phần này chỉ
nhắc lại một chút về lịch sử không thành văn để mọi người biết, giải thích một
vài việc có người chưa rõ, không có liên quan gì đến việc xếp thế thứ trong họ
hiện nay.
Năm 1898, do có sự chưa đồng
cảm, đồng lòng nên đã xẩy ra va chạm giữa một bên là Chi trưởng có người tham
gia việc công (Chánh hội). Một bên là
Chi 2 có truyền thống đỗ đạt, trong đó có 2 tiến sĩ; Vì thế nên việc lo những
ngày tiết lễ của họ Mai đã được họ chuyển giao cho Trưởng Chi 5 là gia đình Cụ
Đồ Thuận cùng với 1,2 sào ruộng họ (thửa
ruộng 9 thước hiện nay ở Cửa Dinh, có
một ngôi mộ xây lớn, có 3 chữ Hán “Văn tại ân”do gia đình ông Mai Xuân Chức
đang trông nom, và một thửa 6 thước ở cạnh “Tam bảo” đồng Ré). Từ năm này (1898), các gia đình thuộc Chi 5 về sinh
hoạt hành chính như một thành viên ở Chi trưởng.
Hàng năm vào dịp đầu xuân, ngày mồng 3 Tết, cả họ tập trung tại nhà Cụ
Đồ Thuận để thắp nhang và thụ lộc “oản trà” (trà
ở đây là thứ dung dịch sóng sánh, màu nâu sẫm, được chế biến từ 2 thứ chính là
mật và lá trà để chấm oản và xôi, chứ không phải là chè uống nước). Đến ngày mồng 9 (trước hội làng một ngày), gồm các
Trưởng Chi và những người có chức sắc trong họ như Chánh hội, hương lý, lý hào,
cửu phẩm, quản tuần, thông lại, hộ lại...., đó là các Cụ: Thông Đàm, Cứu Xương,
Chánh Triều, Chánh Phiến, Hương Điều, Hương Ngoan, Quản Tần, Chánh Quyến, Lý
Nghĩa...v...v...lại tập trung tại nhà Cụ Đồ, tổ chức lễ Tổ. Cuộc hội ngộ ngày
đó tổ chức gọn nhẹ, thành phần chọn lọc (những
người không có chức sắc, không được dự, và vì ngày hôm sau, làng mới tổ chức tế lễ Thành
hoàng, các họ không được tế lễ trước làng). Vật phẩm lễ chỉ có xôi gà, oản
trà, rượu chuối, hương hoa. Sau phần thụ lộc đơn giản, mỗi thành viên đến dự
được nhận một phần lộc mang về nhà, trong đó có phẩm oản phải được đóng bằng
khuôn của họ quy định, có chữ Mai – chữ Hán – được khắc chìm trên núm đáy của
khuôn đóng oản. Khi in oản ra sẽ có chữ Mai nổi trên đầu phẩm oản. Kinh phí cho
việc này lấy từ hoa lợi của 1,2 sào ruộng họ giao cấy lúa.
Đến năm 1960, ruộng họ xung vào HTX, tuy vậy, 3 năm sau, nhà Trưởng vẫn
lo việc lễ Tổ hai ngày mồng 3 và mồng 9 chu đáo bằng kinh phí của gia đình
mình. Hai người giúp nhà Trưởng các công việc của hai ngày lễ trên là các Cụ
Ngân và Cụ Nhận.
Chiều mồng 8, Cụ Hương Ngoan – trưởng ban khánh tiết hồi đó – kiểm tra sự chuẩn bị vật phẩm lễ Tổ của nhà
Trưởng. Chiếc gậy ba toong của Cụ thọc vào rổ gà 9 con, đã cắt tiết. Không may
có con gà chưa chết hẳn đã chạy mất, gây bức xúc cho Cụ bà nhà trưởng. Sang
sáng mồng 9, trong quá trình thụ lộc, một thành viên đã “ngà ngà”, không nhớ rằng
ruộng của họ đã vào HTX, không còn hoa lợi cho “việc họ”, nhưng nhà Trưởng vẫn lo
chu đáo; nên thành viên đó đã nhắc nhở nhà Trưởng là phẩm oản trong phần mang
về đã đóng nhỏ hơn, không đúng với khuôn mà họ quy định! Sự việc này cộng với
sự việc gà chạy mất chiều mồng 8 đã làm cho không khí chẳng vui vẻ gì đã xẩy
ra.... Cũng từ năm đó (1962) trở về
sau là những năm thời kỳ bao cấp và chiến tranh - sau 65 năm Trưởng Chi 5 được lo việc họ - đã không
còn tổ chức lễ Tổ ngày mồng 3 và mồng 9 tháng giêng ở nhà Trưởng Chi 5 nữa.
Sự kiện không thành văn này đã được Cụ Mai Danh Lai ghi rõ trong di chúc
của Cụ để lại. Cụ Hương Ngoan trước khi mất đã dặn lại anh em ông Tứ và ông Tâm:
nội dung đại ý là gọi “Nhà ông Chức là
bác Trưởng”. Theo các Cụ Mai Hữu Phương, Mai Hữu Lượng, Mai Tuấn Uyên hiện
nay vẫn còn nhớ: “thường được Cụ Thông – là bố - đưa xuống nhà “Anh Nghĩa” (tức là Cụ Mai Phú Nghĩa – cháu nội Cụ trưởng Mai Hữu Thuận) - dự lễ Tổ
một số năm.
Vì sự chuyển giao Trưởng trên
mà nhiều gia đình gọi gia đình Cụ Mai Hữu Thuận, rồi đến các Cụ Mai Hữu Luận,
Mai Phú Nghĩa, bây giờ là ông Mai Xuân Chức là “bác Trưởng”. Đó là sự tôn trọng
và tôn vinh theo lễ giáo ngày xưa, vì mấy đời gia đình Cụ Thuận đã có công như
chức danh là Trưởng họ, lo công việc của họ và đã tổ chức giỗ Tổ 65 năm liền.
Sự kiện này, đến nay vẫn giữ nguyên như các Cụ trong họ đã thực hiện xưa kia. (Cụ
Phương, Cụ Lượng, Cụ Uyên, ông Tâm, ông Chất... và nhiều gia đình khác trong
họ, hiện nay vẫn xưng hô với ông Chức như vậy. Riêng ông Chức vẫn nhận mình ở
đời thứ 14, thuộc Chi 5 và vẫn thường nói “Đấy là sự tôn vinh ”)
Phần thứ bảy: KẾT
LUẬN
Sự việc
trong họ Mai nội hương Cao Lãm từ khi nhen nhóm một số vấn đề chưa thống nhất đến
nay đã 50 năm. Đáng ra không có gì to tát; đáng ra không có gì gọi là mâu
thuẫn; nếu như vì việc của cả họ mà nhường nhịn, cầu thị gặp nhau thì sự việc
đã trở nên đơn giản. Nếu như không có những hoạt động mang nặng tính bảo thủ,
hiếu thắng bài xích nhau thì việc đoàn kết vui vẻ và nhớ đến Tổ tiên không đến
nỗi gián đoạn như mấy chục năm vừa qua. Việc không đáng có, không đáng xẩy ra, đã
trái với đạo đức truyền thống, nền nếp gia phong mà Tổ tiên, ông cha để lại.
Kết quả một năm tìm tòi, thu
thập, nghiên cứu, phân tích và những bức xúc dồn nén từ nhiều năm trước, Thường
trực Ban Nghiên cứu và chắp nối phả của họ lập thông báo này, coi như kết thúc
bước một nhiệm vụ mà toàn họ giao cho.
Tình hình, dữ kiện liên quan đến một
số vấn đề chưa thống nhất trong họ về thế thứ, Thường trực đã tóm tắt nêu ra ở
trên. Có thể chưa thật hoàn chỉnh, nhưng về cơ bản là đúng như các tài liệu
hiện còn giữ lại được và như sự thật đã diễn ra.
Về việc có người khi trích dẫn
nói rằng: đấy là phả của Tổ tiên để lại là có phần lạm dụng, bởi lẽ:
Phả của Tổ tiên để lại
chỉ có 2 quyển, đó là:
1.
Phả 1740 chỉ viết đến đời thứ 7.
2.
Phả 1817 chỉ viết đến đời thứ 10.
Sự
xếp thế thứ từ đời thứ nhất đến đời thứ 10 trong toàn họ là thống nhất giữa các
chi, không ai thắc mắc gì. Tổ tiên để lại là như vậy. Phát sinh không thống
nhất chỉ từ đời thứ 11 do kê tên mỗi phả mỗi khác. Sự khác ấy lại do nguyên
nhân “hồ đồ” phải đi “dò hỏi truyền khẩu”.... , không rõ ràng như thế nên mới sinh ra nhầm lẫn.
3.
Những tài liệu còn lại: phần vì chưa đến tầm là phả của cả họ; phần vì
thời gian mới chỉ gần đây thôi, các tác giả phả chưa được lên hàng Tổ tiên.
Theo phong tục tế lễ cổ truyền của Việt Nam thì Cụ kỵ thuộc “Ngũ đường” tức là
5 đời trở lên mới đưa vào hàng Tổ tiên.
Vì một họ Mai có học và văn
hiến, làng Cao Lãm xưa đã có 99 vị đỗ đạt thời Lê Trung hưng, thì họ Mai Chúng
ta đã có đến 33 người, chiếm 33,3% trong số đó, góp phần không nhỏ vào việc làm
nên kỳ tích: “Làng khoa bảng”. Họ Mai chẳng những ở nội hương mà các Chi thuộc
họ Mai gốc Cao Lãm ở ngoại hương ngày càng lớn mạnh, ngày nay trở thành một lực
lượng đông đảo lên tới hàng nghìn gia đình, có tiếng nói và vị thế xứng đáng
trong họ Mai toàn quốc.
Hơn lúc nào hết, toàn thể
các thành viên trong họ Mai, dù đang sinh sống tại đâu, làm nghề gì, còn những
vấn đề gì chưa thật thông cảm với nhau hãy vì truyền thống của cả họ, hãy vì
thế hệ hôm nay và mai sau; hãy thiết thực tỏ lòng tri ân Tổ tiên mà bỏ qua hiềm
khích “khép lại quá khứ”, cùng nhau kính cẩn chiêm bái Tổ; Hãy thông cảm,
nhường nhịn, tôn trọng lẫn nhau, cùng nhau tiếp tục bàn thảo đi đến thống nhất
cao trong toàn họ về những vấn đề còn tồn tại nếu có. Việc đã qua, tất cả chỉ
là chuyện hiểu lầm.
Thực hiện NQ của họ và
chương trình làm việc của Ban Nghiên cứu & chắp nối phả, các Chi trong họ
dù ở nội hay ngoại hương hãy khẩn trương hoàn tất phả đồ của Chi mình, tiến tới
xây dựng một phả đồ chung cho cả họ Mai.
Tập thể, cá nhân nào trong
họ có phát hiện mới, có tài liệu khác, hoặc ý kiến góp ý gì với Ban Nghiên cứ
& chắp nối phả có thể bằng văn bản hoặc trao đổi trực tiếp với các vị: Trưởng
ban Mai Lượng, ĐT 0433.899.281, thư ký Mai Xuân Chức ĐT 0433.899.004,
DĐ 0943.375.212, Email : xuanchuc90@gmail.com, hoặc ủy viên Mai
Tân ĐT: 0466.624.404.
Ban nghiên cứu & chắp nối
phả họ Mai sẽ nghiêm túc tiếp thu, tiếp tục hoàn chỉnh hơn nữa việc nghiên cứu
– chắp nối phả họ Mai có gốc ở Cao Lãm, Cao Thành.
Thông báo này có 14 trang
đánh máy khổ A4, đã được thông qua tại hội nghị toàn thể họ Mai nhân ngày giỗ
Tổ 18 tháng 02 Nhâm Thìn tức ngày 10 tháng 3 năm 2012. Tất cả các ý kiến phát
biểu tại hội nghị đều đã nhất trí hoàn toàn.
Xin mời vào trang Website: homaicaolam.blogspt.com
để mở rộng hơn.
BAN
NC & CNP HỌ MAI
TRƯỞNG BAN
MAI LƯỢNG
Nơi gửi: - Tất cả các thành viên trong họ
-
Lưu Ban NC &CNP
HỌ MAI CAO
LÃM
.....................
Họ Mai ở làng Cao Lãm là một họ có truyền thống về
nhiều mặt, nổi
bật nhất là tinh thần hiếu học. Trong số
99 vị
Khoa bảng của
làng thời Lê Trung hưng – khắc trên
bia đá tại
nhà Văn bia Khả Lãm,
họ Mai có tới 33 vị - chiếm tỷ lệ 33,3%.
Song
do nhiều nguyên nhân, mấy chục năm
nay, việc
đoàn kết thống
nhất trong họ về thế
thứ giữ a một số người
ở Chi 2 với Chi
trưởng chưa được làm rõ, gây nên nỗi
buồn và
bức xúc cho nhiều
người trong họ.
Thực
hiện Nghị quyết của toàn họ có đại diện
của hầu
hết các Chi trong nội, ngoại hương nhân ngày giỗ Tổ 18 - 2
năm Tân Mão 2011,
Ban Nghiên cứu & chắp nối phả đã
được
thành lập, do hội nghị của họ cử ra.
Sau
một năm tìm tòi, nghiên cứu với tinh thần trách
nhiệm
cao, tâm huyết,
cẩn trọng, có căn cứ và khách quan,
Thường trực của
Ban đã lần lượt có các
Nghị quyết 3 - 2011,
Thông báo số 01,
02, nêu rõ từng bước thự c hiện kế hoạch
đã đề ra và lần này là
Thông báo số 03/TB gửi tới các Chi để
tranh thủ ý
kiến.
Sau
khi đã tiếp thu các ý kiến đóng góp, Thường trực Ban
đã chỉnh lý, bổ sung TB 03 cùng
với các TB trước và Nghị quyết
cuộc họp họ ngày giỗ Tổ 18 tháng
2 Nhâm Thìn vừa qua thành
tập tài liệu này
để thông tin tới tất cả mọi thành viên trong họ
Mai nội ngoại hương , mong tất cả các thành
viên trong họ đều
chung tay góp phần vun đắp cho tình anh em ngày càng đơm
hoa kết trái.
Đây
không phải là phả họ, mà chỉ là làm rõ nguyên nhân
một vài vướng mắc trong thời
gian đã qua.
Xin mời vào trang
Website của họ:
Thông tin phản hồi xin gửi vào Email: homaicaolam@gmail.com
BAN NGHIÊN CỨU & CHẮP NỐI TỘC PHẢ
THÁNG 3 NĂM 2012
|